Wednesday, March 26, 2014

Nhà tù trong rừng

Đây là điển hình một nhà tù cuả bộ đội bắn đòm ông cụ trong rừng, hình chụp cuả bọn Biệt kích sau khi tấn công vào mật khu.
















Theo quân phục, vũ khí  M16 thì những hình này chụp khoảng 68-70.


Tuesday, March 25, 2014

Lost daughters of the B.F. (Bài cuả AHTT)


Nhời Trung Tướng,
B.F. là chữ biên tắt Big Father, tức Cha Già, Lãnhtụ Đờiđời Tôngdật. Tại một miền kia, xacách ta lắmlắm, quầnchúng côngkhai nhắc B.F. sẽ bị khép tội Phảnbội Tổquốc, chiểu Điều X Bộ Luật Hìnhsự (X>80), án tù-ngồi không dưới 5 năm, và bị bêuriếu trên 700 mặt báo cho toànthể quốcdân khinhbỉ.

Con-gái Cha Già
Thằng Bụng Gỗ là bạn thân Trung Tướng. Bạn vongniên.
Bụng Gỗ già mõm rồi. Thờiđiểm Trung Tướng chép chuyện này (200x), Bụng Gỗ hưutrí đã hai mùa.
Già, nhưng Bụng Gỗ thầntượng Trung Tướng lắm. Nó coi Trung Tướng lỗilạc nhất thếgian, chim to, mỏ ngọt, hiếuđễ, tậntình, vănminh, khảái. Hehe ngượng phết. Trung Tướng thực-ra nhiều ưuđiểm hơn thế, chẳng-qua khiêmtốn, nên ngượng.

Bụng Gỗ sởhữu hai con-gái ruột. Đứa nhớn theo chồng lôngbông cõi nào hiuquạnh vãi, năm thăm pama vài kỳ, có như không. Đứa bé ngấpnghé 30, tên Biêu Biêu, chuyênviên NGO lãnh lương Tơn, ế nặng (*).
Bận nọ nhậu phê, Bụng Gỗ gạ, Trung Tướng, cưới vợ đi mày.
Trung Tướng nói, anh định bátxê con nào, hửm?
Bụng Gỗ nói, hừm, con út nhà anh. Ôkê?
Trung Tướng nói, em tanh bỏ bố, làm rể anh hehe mang-tiếng chết.
Bụng Gỗ nói, mày chê gì? Nó Thạcsĩ, kém đéo gì mày. Học Tây học Tầu đủ nhẽ, kém đéo gì mày. Lương nó ngàn Tơn, mày đéo phải nuôi. Nó còn 300 mét đất bên Gia Lâm, chúng mày bán thì bán, ở thì ở, mày đéo phải lo.
Trung Tướng cười hahaha, anh đừng thuyếtphục kiểu đó, em tươngtư thì bỏ bố. Xinh không?
Bụng Gỗ nói, nó giống mẹ. Xinh.
Trung Tướng chưa đến nhà Bụng Gỗ lần nào, nhưng đoán vợ nó chắc cũng mượt, vì
nó cũng thuộc dạng háo-sắc có đẳngcấp.
Trung Tướng phán, I’ve been persuaded. Giờ sao?
Bụng Gỗ bảo, chủnhật mày xuống anh ăn cơm?
Trung Tướng ôkê.

***
Biêu Biêu, papa nó quảngcáo, học Tây học Tầu đủ nhẽ, mà eấp thẹnthò như gái miệt rừng. Suốt buổi, nó lụicụi nấunấu nướngnướng cùng mama, má đỏ chín, trán bết tóc, mũi loangloáng bùhôi, gân cổ phậpphồng phậpphồng, hehe yêu phết.
Trung Tướng gào, Biêu ới Biêu ới. Chai Chivas bú dở của pa đâu rồi em.
Hehe nghe yêu không?
Biêu Biêu kêu vống từ bếp, anh tìm hộ em trong tủ-lạnh ý.
Hehe yêu không?
Buôm Buôm, mẹ Biêu Biêu, vợ Bụng Gỗ, là một thịdân tầm tuổi 194x (x>8), sắc-nét, quýphái, nhưng lạnhlẽo, khắckỷ, khó-gần. Mắt nó sáng quăngquắc. Mép hằn sâu. Mũi dài và mỏng.
Trung Tướng nịnh, cô rán nem hệt mẹ cháu.
Buôm Buôm đáp, ừ.
Hehe nghe nhạt không?

***
Suốt bữa, Trung Tướng chả chuyệntrò Biêu Biêu mấy, nó quá nhát, nhưng toàn lén liếc Buôm Buôm. Mama Biêu Biêu giống một ai-đó Trung Tướng không nhớ nổi.
Bụng Gỗ khoe, cô duhọc Liên Sô 6x đấy Trung Tướng. Mày múa tiếng Nga đê (**).
Trung Tướng hớnhở, ui giống pa cháu mới chú cháu. Thời 6x đi Tây không phải thi, chỉ chọn lýlịch. Cô nhở?
Buôm Buôm đáp, ừ.
Hehe nhạt không?
Bụng Gỗ bảo, cô mày con-nuôi Thứ-trưởng Ngực Phồng, mày biết không Trung Tướng?
Trung Tướng giậtnảy, ui Mr Ngực Phồng, sếp pa cháu (***).
Và Trung Tướng nhớ ra ngay Buôm Buôm giống ai.

***
Mr Vai Suôi, bác Trung Tướng, là sếp Bộ ABC, lãothành tiền-khởinghĩa, đệtử lãnhtụ Khuôn Khuôn.
Lãnhtụ Khuôn Khuôn là Đại Công Thần, quyềnuy khétlẹt.
Vai Suôi có tổngthể 8 con hợplệ. Bốn đứa là con vợ-cả, tảohôn tít trong Nam Kỳ thuở 193x, Trung Tướng chưa gặp bao giờ. Ba đứa là con vợ-thứ, hai gái một trai, đều sinh quãng đầu 196x, thân Trung Tướng rất. Đứa nữa là con-nuôi, gái, tuổi 195x (x♥), tên Biu Biu.
Biu Biu sống trong giađình Vai Suôi như một kẻ dưng toàndiện. Xinhđẹp và lặnglẽ. Gọnghẽ và tựlập. Ăn, ngủ, làm, chơi, Biu Biu đều giống một bộđội hơn một nhiđồng. Trung Tướng ghét nó rất.
Cuối 196x, Biu Biu qua Sô Liên học ngành Vănkhố. Học đến 7-8 năm mới về, xong vào luôn Sài Gồng côngcán. Trung Tướng không thấy nó suốt từ bấy, ngót 40 mùa rồi.

***
Tới 199x, Trung Tướng tậptành đú Sử. Đềtài ruột của Trung Tướng là hehe, Đời Ông Cụ.
Bận nọ thăm Vai Suôi, Trung Tướng nổi-hứng tung tiểuluận Con Ông Cụ.
Trung Tướng phán, Ông Cụ đẻ nghiêmtúc được bốn con, hai gái hai giai. Em Marie tộc Pháp 192x. Em Tania tộc Nga 193x. Cô Đoóc tộc Tày 194x. Cô Toóc tộc Nùng 195x. Không đứa nào Thuần Lừa.
Vai Suôi cười hahaha, mày Sửgia Cục Cứt. Chị mày cũng con Ông Cụ thôi.
Trung Tướng sởn mẹ bẹn. Ai?
Vai Suôi nói, chị Biu Biu mày ý. Con Ông Cụ đấy.
Trung Tướng thốt, bác đùa?
Vai Suôi nói, đùa gì. Ban gửi đấy.
Trung Tướng hiểu, Ban đây là Ban Chămsóc Sứckhỏe Lãnhtụ (****).
Ui Biu Biu thươngmến, chị giống Ông Cụ biết chừng nào.
Vai Suôi nói, cái Ngoong con-nuôi ông Khuôn Khuôn cũng con Ông Cụ nốt (*****).

***
Lại nhậu phê với Bụng Gỗ, Trung Tướng hỏi, bà-chị là con-nuôi ông Ngực Phồng, vậy con-thật ai?
Bụng Gỗ oangoang tựhào, anh chưa kể à? Anh là rể Ông Cụ.
Trung Tướng nói, lúc anh bảo chị con-nuôi ông Ngực Phồng, em đã wonder chị con Ông Cụ hehe.

***
Trung Tướng rốt-cuộc không thành con-rể Bụng Gỗ, tức không thành cháu-rể Lãnhtụ Đờiđời Tôngdật. Lýdo vôcùng nhảm, Biêu Biêu chê Trung Tướng hay gọi nhầm pa nó bằng Anh. Cháu-ngoại Ông Cụ hãm kinh.
Ngày 3 tháng X vừa rồi (X>8), Bụng Gỗ rủ Trung Tướng viếng Ông Cụ.
Cắm một nén nhang mé Quảngtrường, Bụng Gỗ bái vọng Ông Cụ, cách 300m, khấn rầmrầm: Ông-ngoại, xin độtrì các con các cháu.
Ông-ngoại, hehe, taonhã nhé.

(@2005 AHTT)

(*) NGO: Tậpđoàn vô-chínhphủ Khoaitây, hay gì? Trung Tướng hehe biết đéo.
Lương Tơn: Tức lương tháng tính bằng Ông Tơn aka USD.
(**) 6x: Hàm-ý 196x.
(***) Thứ-trưởng Ngực Phồng: Nhânvật bài Thuật Dòm Mồm, thuộc loạt ký Thiênđàng chép bởi Trung Tướng 200x.
(****) Ban Chămsóc Sứckhỏe Lãnhtụ: Mời các cô gúc mời mời.
(*****) Cái Ngoong: Tức Ms Ngoong, kiếntrúcsư tiếngtăm, known as con-gái lãnhtụ Khuôn Khuôn.

Lost daughters of the B.F.

Nhời Trung Tướng,
B.F. là chữ biên tắt Big Father, tức Cha Già, Lãnhtụ Đờiđời Tôngdật. Tại một miền kia, xacách ta lắmlắm, quầnchúng côngkhai nhắc B.F. sẽ bị khép tội Phảnbội Tổquốc, chiểu Điều X Bộ Luật Hìnhsự (X>80), án tù-ngồi không dưới 5 năm, và bị bêuriếu trên 700 mặt báo cho toànthể quốcdân khinhbỉ.

Con-gái Cha Già

Thằng Bụng Gỗ là bạn thân Trung Tướng. Bạn vongniên.
Bụng Gỗ già mõm rồi. Thờiđiểm Trung Tướng chép chuyện này (200x), Bụng Gỗ hưutrí đã hai mùa.

Già, nhưng Bụng Gỗ thầntượng Trung Tướng lắm. Nó coi Trung Tướng lỗilạc nhất thếgian, chim to, mỏ ngọt, hiếuđễ, tậntình, vănminh, khảái. Hehe ngượng phết. Trung Tướng thực-ra nhiều ưuđiểm hơn thế, chẳng-qua khiêmtốn, nên ngượng.

Bụng Gỗ sởhữu hai con-gái ruột. Đứa nhớn theo chồng lôngbông cõi nào hiuquạnh vãi, năm thăm pama vài kỳ, có như không. Đứa bé ngấpnghé 30, tên Biêu Biêu, chuyênviên NGO lãnh lương Tơn, ế nặng (*).

Bận nọ nhậu phê, Bụng Gỗ gạ, Trung Tướng, cưới vợ đi mày.
Trung Tướng nói, anh định bátxê con nào, hửm?
Bụng Gỗ nói, hừm, con út nhà anh. Ôkê?
Trung Tướng nói, em tanh bỏ bố, làm rể anh hehe mang-tiếng chết.
Bụng Gỗ nói, mày chê gì? Nó Thạcsĩ, kém đéo gì mày. Học Tây học Tầu đủ nhẽ, kém đéo gì mày. Lương nó ngàn Tơn, mày đéo phải nuôi. Nó còn 300 mét đất bên Gia Lâm, chúng mày bán thì bán, ở thì ở, mày đéo phải lo.
Trung Tướng cười hahaha, anh đừng thuyếtphục kiểu đó, em tươngtư thì bỏ bố. Xinh không?
Bụng Gỗ nói, nó giống mẹ. Xinh.

Trung Tướng chưa đến nhà Bụng Gỗ lần nào, nhưng đoán vợ nó chắc cũng mượt, vì 
nó cũng thuộc dạng háo-sắc có đẳngcấp.
Trung Tướng phán, I’ve been persuaded. Giờ sao?
Bụng Gỗ bảo, chủnhật mày xuống anh ăn cơm?
Trung Tướng ôkê.

***

Biêu Biêu, papa nó quảngcáo, học Tây học Tầu đủ nhẽ, mà eấp thẹnthò như gái miệt rừng. Suốt buổi, nó lụicụi nấunấu nướngnướng cùng mama, má đỏ chín, trán bết tóc, mũi loangloáng bùhôi, gân cổ phậpphồng phậpphồng, hehe yêu phết.
Trung Tướng gào, Biêu ới Biêu ới. Chai Chivas bú dở của pa đâu rồi em.
Hehe nghe yêu không?
Biêu Biêu kêu vống từ bếp, anh tìm hộ em trong tủ-lạnh ý.
Hehe yêu không?
Buôm Buôm, mẹ Biêu Biêu, vợ Bụng Gỗ, là một thịdân tầm tuổi 194x (x>8), sắc-nét, quýphái, nhưng lạnhlẽo, khắckỷ, khó-gần. Mắt nó sáng quăngquắc. Mép hằn sâu. Mũi dài và mỏng.
Trung Tướng nịnh, cô rán nem hệt mẹ cháu.
Buôm Buôm đáp, ừ.
Hehe nghe nhạt không?

***
Suốt bữa, Trung Tướng chả chuyệntrò Biêu Biêu mấy, nó quá nhát, nhưng toàn lén liếc Buôm Buôm. Mama Biêu Biêu giống một ai-đó Trung Tướng không nhớ nổi.
Bụng Gỗ khoe, cô duhọc Liên Sô 6x đấy Trung Tướng. Mày múa tiếng Nga đê (**).
Trung Tướng hớnhở, ui giống pa cháu mới chú cháu. Thời 6x đi Tây không phải thi, chỉ chọn lýlịch. Cô nhở?
Buôm Buôm đáp, ừ.
Hehe nhạt không?
Bụng Gỗ bảo, cô mày con-nuôi Thứ-trưởng Ngực Phồng, mày biết không Trung Tướng?
Trung Tướng giậtnảy, ui Mr Ngực Phồng, sếp pa cháu (***).
Và Trung Tướng nhớ ra ngay Buôm Buôm giống ai.

***

Mr Vai Suôi, bác Trung Tướng, là sếp Bộ ABC, lãothành tiền-khởinghĩa, đệtử lãnhtụ Khuôn Khuôn.
Lãnhtụ Khuôn Khuôn là Đại Công Thần, quyềnuy khétlẹt.
Vai Suôi có tổngthể 8 con hợplệ. Bốn đứa là con vợ-cả, tảohôn tít trong Nam Kỳ thuở 193x, Trung Tướng chưa gặp bao giờ. Ba đứa là con vợ-thứ, hai gái một trai, đều sinh quãng đầu 196x, thân Trung Tướng rất. Đứa nữa là con-nuôi, gái, tuổi 195x (x<3), tên Biu Biu.
Biu Biu sống trong giađình Vai Suôi như một kẻ dưng toàndiện. Xinhđẹp và lặnglẽ. Gọnghẽ và tựlập. Ăn, ngủ, làm, chơi, Biu Biu đều giống một bộđội hơn một nhiđồng. Trung Tướng ghét nó rất.
Cuối 196x, Biu Biu qua Sô Liên học ngành Vănkhố. Học đến 7-8 năm mới về, xong vào luôn Sài Gồng côngcán. Trung Tướng không thấy nó suốt từ bấy, ngót 40 mùa rồi.

***

Tới 199x, Trung Tướng tậptành đú Sử. Đềtài ruột của Trung Tướng là hehe, Đời Ông Cụ.
Bận nọ thăm Vai Suôi, Trung Tướng nổi-hứng tung tiểuluận Con Ông Cụ.
Trung Tướng phán, Ông Cụ đẻ nghiêmtúc được bốn con, hai gái hai giai. Em Marie tộc Pháp 192x. Em Tania tộc Nga 193x. Cô Đoóc tộc Tày 194x. Cô Toóc tộc Nùng 195x. Không đứa nào Thuần Lừa.
Vai Suôi cười hahaha, mày Sửgia Cục Cứt. Chị mày cũng con Ông Cụ thôi.
Trung Tướng sởn mẹ bẹn. Ai?
Vai Suôi nói, chị Biu Biu mày ý. Con Ông Cụ đấy.
Trung Tướng thốt, bác đùa?
Vai Suôi nói, đùa gì. Ban gửi đấy.
Trung Tướng hiểu, Ban đây là Ban Chămsóc Sứckhỏe Lãnhtụ (****).
Ui Biu Biu thươngmến, chị giống Ông Cụ biết chừng nào.
Vai Suôi nói, cái Ngoong con-nuôi ông Khuôn Khuôn cũng con Ông Cụ nốt (*****).

***

Lại nhậu phê với Bụng Gỗ, Trung Tướng hỏi, bà-chị là con-nuôi ông Ngực Phồng, vậy con-thật ai?
Bụng Gỗ oangoang tựhào, anh chưa kể à? Anh là rể Ông Cụ.
Trung Tướng nói, lúc anh bảo chị con-nuôi ông Ngực Phồng, em đã wonder chị con Ông Cụ hehe.

***

Trung Tướng rốt-cuộc không thành con-rể Bụng Gỗ, tức không thành cháu-rể Lãnhtụ Đờiđời Tôngdật. Lýdo vôcùng nhảm, Biêu Biêu chê Trung Tướng hay gọi nhầm pa nó bằng Anh. Cháu-ngoại Ông Cụ hãm kinh.
Ngày 3 tháng X vừa rồi (X>8), Bụng Gỗ rủ Trung Tướng viếng Ông Cụ.
Cắm một nén nhang mé Quảngtrường, Bụng Gỗ bái vọng Ông Cụ, cách 300m, khấn rầmrầm: Ông-ngoại, xin độtrì các con các cháu.
Ông-ngoại, hehe, taonhã nhé.

(@2005 AHTT)

(*) NGO: Tậpđoàn vô-chínhphủ Khoaitây, hay gì? Trung Tướng hehe biết đéo.
Lương Tơn: Tức lương tháng tính bằng Ông Tơn aka USD.
(**) 6x: Hàm-ý 196x.
(***) Thứ-trưởng Ngực Phồng: Nhânvật bài Thuật Dòm Mồm, thuộc loạt ký Thiênđàng chép bởi Trung Tướng 200x.
(****) Ban Chămsóc Sứckhỏe Lãnhtụ: Mời các cô gúc mời mời.
(*****) Cái Ngoong: Tức Ms Ngoong, kiếntrúcsư tiếngtăm, known as con-gái lãnhtụ Khuôn Khuôn. 

Saturday, March 22, 2014

Mất tân (Bài cuả AHTT)

Nhời Trung Tướng

Bài trong hộp Triện Ngắn đương nhiên điếu thể là phóng sự tùy bút chó ỉa này kia. Đồng chí Cháu trong triện ngắn sau đây đương nhiên điếu phải Trung Tướng. Trung Tướng điếu mất tân muộn thế.

Cháu mất tân năm tròn hai mươi tuổi. Mẹ người ta hai mươi thì đầy hoài bão. Đâu như bác Gì Phú thì ngồi viết Cương Lĩnh Cộng Sản Đảng. Bác Gì Hữu thì Bừng Bừng Nắng Hạ. Tệ lắm cỡ bác Gì Thành cũng biết xuất dương tìm Đường Kách Mệnh nơi chân giời góc bể.

Còn cháu, mẹ thú thực, rằng ở cái tuổi hai sọi, chỉ có mỗi khát vọng được mất tân.
Hai mươi tuổi mà chưa mất tân à? Nghiêm trọng quá.
Lỡ đâu hai mốt tuổi đoàng phát phải ra trận như anh Thạc chị Trâm, rồi đùng phát hy sinh nhạt toẹt bởi một phát súng của đồng bào, thì mẹ đúng là số bốc cứt. Chết mà vẫn còn tân thì chua xót ôi thôi chua xót.

Lỡ đâu hai hai tuổi chưa chết vì quê hương, mà chết vì cái xe buýt chạy lấn đường, hay cành cây khô rớt phát trúng não bộ. Não nề ôi thôi não nề. Chết vẫn còn tân với hàng hàng hoa trắng.
Lỡ đâu lỡ đâu lỡ đâu.

Cháu quyết định phải mất tân bằng mọi giá không quá đắt đỏ. Chẳng hạn ba chục cuốc xe ôm là ngân khoản chấp nhận được.
Lận một trăm ngàn trong túi sau, cháu đi kiếm chỗ phá tân.

Cỡi con Uây Tàu 100cc phạch phạch qua phố Tê mà lòng ruột cháu xốn xang như thể lượn ở bến Nhà Rồng dòm xuống boong tàu Tơ-rê-vi-lơ bốc khói thực dân thời đầu thế kỷ. Thấy các đàn anh bẩu ở đây gái mú đứng đầy hè. Mất tân bởi một con bớp ế thì thật ê chề, nhưng chả ê chề bằng xuống địa ngục rồi mà tân vẫn chưa mất. Thôi đành, í a thôi đành, thôi đành rắm mắt đưa chân.

Cháu chạy chậm chậm được đâu chừng hai trăm thước thì nghe tiếng phạch phạch ngay cạnh. Rõ ra tiếng máy của một con cũng Uây Tàu 100cc chạy không ga. Linh cảm không uýnh lừa giai tân bao giờ, hẳn nhiên rùi, đó là một con mái.

Con mái hơi già, có thể đã trên ba sọi hoặc hơn tí ti. Dưng tinh thần quyết tâm mất tân của cháu điếu cho phép cháu lằng nhằng. Mái nào chả là mái. Không lẽ thiên kim tiểu thư thì có tư cách mái hơn một cụ nạ dòng? Máu cháu bốc rần rật trong các động tĩnh mạch, nhất là tại các vùng nhạy cảm như đầu ngón tay hoặc một số chỗ khác mà vì tế nhị cháu không muốn kể.

Không dòm kỹ con mái, cháu cũng biết chắc cháu sẽ mất tân vì nó, cho dù nó có là một con ngựa mái, hoặc thậm chí một chiếc công nông mái. Mẹ đứng trước triển vọng một cuộc mất tân thì ta cũng điếu có nhiều sự chủ động đâu nhở.

Con mái chạy bên cháu chừng chục thước, rồi đột ngột quay sang nhoẻn cười. Với nhiều vị đáng mến thì quả cười này là vô cùng nhơ nhuốc, uế tạp, đại khái là rất bửn thỉu điếu thể tả được, dưng với cháu nó đang là cứu cánh.

Theo gợi ý từ trước bởi các bậc đàn anh, cháu hỏi, nhiêu em? Con mái giả nhời, cho em tám xịch nhé, em bao phòng. Dù đã mừng tắc thở vì giá của cú phá tân rẻ hơn dự kiến tới hai chục ngàn, thì cháu vẫn buông một phát mặc cả, sáu chục thôi em. Con mái lúng liếng cười, theo em nhé.
Ừ thì theo.

Đó là một Quãng Đường Dài Lộng Gió như trong bài hát gì của tay gì bên Khoai Tây, cứ như thể cháu đang tìm ra chân lý. Điếu hiểu chân lý khi xưa của bác Gì Quốc tươi đẹp cách nào, dưng mà cháu chắc hẳn nó cũng chỉ nâng cánh tâm hồn ta cỡ đó thôi. Ta sắp mất tân. A ha ha.

Con mái dẫn cháu tới một nhà nghỉ bần tiện. Ừ thì bần tiện. Ta cần mất tân hay cần một khuê phòng rèm hồng máy lạnh? Khó điếu gì cho một câu giả nhời đúng. Cháu điếu nhớ cái ga giường màu gì, ti-vi có phát bài Vừng Giời Đông trong mục thời sự hay không, thậm chí điếu nhớ cả cái lối con mái tụt cho cháu chiếc quần bò hiệu Jong Hua thế nào. Mất tân đương nhiên hệ trọng hơn nhiều so với quần bò ti-vi ga giường và vận mệnh dân tộc, phỏng ạ?

Đến đoạn này thì cháu tự kiểm duyệt cắt con mẹ nó đi. Dù sao văn bựa cũng cần những nguyên tắc không bựa. Cái chính là sự bựa của ta phải nằm trên sự bựa cuộc đời. Điếu phải cái gì bựa cũng bựa. Sến quá nhỉ?
Xong xuôi, cháu giả tiền, bo thêm cho con mái một chục ngàn, bâng quơ cháu mới hỏi, em nhiêu tuổi? Con mái bẩu rằng, con giai em nhớn rồi. Cháu mới bẩu, nhớn là nhớn thế nào? Con mái cười cười, con giai em hăm bốn tuổi.

Địt mẹ, cháu buột mồm, con em hơn anh bốn tuổi.
(@2007 - AHTT)

Friday, March 21, 2014

Các kiểu chiến tranh.

Trade war, America Vs. China - Chiến tranh thương mại, Mỹ chọi với China

Gọi là đối thủ về quân sự thì không đúng, hai nước đã từ lâu cùng dấn sâu vào chính sách thương mại với sự nghi ngờ lẫn nhau. Có phải Mỹ và Trung Quốc đang trong một cuộc chiến tranh kinh tế?  

Nhiều người trong chính phủ Mỹ phàn nàn về việc chính phủ Trung Quốc "thao túng tiền tệ" tiếp tục bán đồng tiền của mình và mua Đô la Mỹ (thực chất là cố tình phá giá tiền tệ của họ để làm cho hàng xuất khẩu rẻ hơn và cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới). Trong cuộc vận động bầu cử tổng thống Mỹ năm 2012, ứng cử viên đảng Cộng hòa Mitt Romney thậm chí đã đi xa hơn khi tuyên bố ông sẽ chính thức liệt Trung Quốc vào tội thao túng tiền tệ và cho phép chính phủ áp đặt thuế đối với hàng hóa Trung Quốc vào Mỹ -ngay vào ngày đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống- nếu ông thắng cử. Đây có là một tuyên bố chiến tranh ? Nếu đúng vậy, China làm thế nào để trả đũa ? 

Không nghi ngờ gì, Trung Quốc và Mỹ dàn xếp các vấn đề thương mại với đối thoại ngoại giao chứ không phải là một cuộc tranh chấp pháp lý trước Tổ chức Thương mại Thế giới, nhưng vấn đề nóng này có khả năng làm rung chuyển nền kinh tế của cả hai nước, và có thể gây ra một cuộc xung đột lớn hơn nhiều ở đâu đó phiá sau.

Asia Pacific war, China Vs. the West - Chiến tranh TháiBìnhDương, China chống lại phương Tây.

Mấy tháng trước, Bắc Kinh tuyên bố 'khu vực phòng không' trên một nhóm quần đảo tại Biển Đông, nơi  đang tranh chấp giữa Nhật Bản và Trung Quốc. 'Khu vực phòng không' bắt buộc tất cả các hãng máy bay phải cung cấp cho chính quyền Trung Quốc lộ trình bay trước khi vào không phận chỉ định. Với cả hai quốc gia đang tranh chấp các đảo, rõ là một hành động trắng trợn xâm lược cuả China! 

Các hòn đảo là tâm điểm của vấn đề tranh cãi rất nhạy cảm giữa Trung-Nhật, cộng với việc Nhật Bản hành xử tàn bạo trong cuộc chiếm đóng Trung Quốc 1937-1945 và người ta cũng đã biết rằng khu vực này có đủ dầu mỏ cung cấp nhiên liệu cho nền kinh tế Trung Quốc trong 45 năm tới.  

Cả hai quốc gia gần đây đã lên án hành vi khiêu khích của nước kia, tàu thuyền Trung Quốc xâm phạm vùng biển Nhật Bản, tàu tuần tra Hải quân Nhật Bản xâm phạm vùng lãnh hải của Trung Quốc. Thêm vào sự nhạy cảm của vấn đề, là tổn thất cuả 20 triệu người Trung Quốc và 2 triệu người Nhật Bản đã chết trong những cuộc xung đột lịch sử.

Khía cạnh đáng chú ý cuả hầu hết các tranh chấp Thái Bình Dương là nó có khả năng ảnh hưởng đến toàn thế giới: 

- Một mặt, cuộc xung đột giữa hai cường quốc kinh tế lớn châu Á  có thể mang tai họa cho nền kinh tế toàn cầu.  

- Mặt khác, hiệp ước an ninh của Mỹ với Nhật Bản bảo đảm rằng Mỹ sẽ can thiệp nếu có chiến tranh, có nghĩa là Nga có thể sẽ nhảy vào giúp Trung Quốc.

 Military Conflict, Russia Vs. the West - Đụng độ quân sự, Nga chống với Tây phương.

Điều hấp dẫn nhất về tranh chấp hiện nay ở Ukraina là những tiếng vọng của quá khứ 'chiến tranh lạnh' đang ngày càng rõ. Cuộc xung đột bắt đầu khi Tổng thống Ukraina, dưới ảnh hưởng của Moscow, từ chối ký một thỏa thuận thương mại với EU. Cuộc biểu tình ủng hộ hội nhập EU của dân chúng Ukraina bùng lên và nhanh chóng biến thành bạo lực.  

Tổng thống Nga Putin tuyên bố đây là cuộc đảo chính lật đổ và xua quân chiếm bán đảo Crimea của Ukraina, chính phủ Mỹ lên án nó như là một "hành động đáng kinh ngạc của sự xâm lược". Điều càng làm trầm trọng vấn đề hơn nữa là nhiều người Ukraina chỉ cảm thấy mình giành được độc lập thực sự bởi việc liên kết với Liên minh châu Âu chứ không phải là liên kết với cựu Liên bang Sô viết.  
Trong mấy ngày qua, những người biểu tình từ Kiev hay từ Moscow đến, đã ném vào mặt nhau những câu đại loại "USA, hãy hỗ trợ chúng tôi" và bên kia thì "Nga ! Nga !" như trong những cuộc biểu tình trước đây trên lãnh thổ Ukraina và ngay cả trên bàn cờ chính trị quốc tế.  

Mong gì hơn nữa, đối với phương Tây đây có lẽ là xung đột về ý thức hệ và lịch sử bất ngờ nhất trong thời gian gần đây. Các cường quốc phương Tây đã đe dọa Nga với biện pháp trừng phạt kinh tế, đáp lại, Nga soạn thảo luật cho phép tịch thu tài sản Mỹ và châu Âu tại Nga, nếu lệnh trừng phạt được áp đặt. Cả công khai lẫn phía sau cánh cửa đóng kín, căng thẳng lên cao giống như trong kịch bản chiến tranh lạnh cổ điển. 

Nhưng hiện tại, Nga vẫn kiểm soát Crimea.

Hết, XâyXậpZì 03/2014.
 

Thursday, March 20, 2014

These 5 Nations Could Win World War III


 Năm quốc gia có thể thắng trong chiến tranh thế giới thứ III

Thứ hai 6/8/1945, lúc 08:15 AM quả bom nguyên tử "Little Boy" nổ tại Hiroshima giết chết 80.000 người và phá hủy 69% thành phố. Ba ngày sau một quả bom thứ hai xuống Nagasaki giết chết ngay tại chỗ 40.000 và hàng chục ngàn người khác chết vì chấn thương và nhiễm xạ sau này, nhờ đó chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản đầu hàng quân đồng minh chỉ thời gian ngắn sau khi Hitler tự sát trong một hầm ngầm ở Đức.

Ngày nay, với một trái bom chỉ hơn 1.000 kg có sức nổ tương đương 1,2 triệu tấn TNT, nếu chiến tranh thế giới bùng nổ đây sẽ là lần đầu tiên trong lịch sử, tất cả các bên tham chiến đều có bom nguyên tử. Với ước tính là 22.000 đầu đạn hạt nhân  trong kho vũ khí quân sự hiện đại, không khó để tin rằng có những quốc gia thực sự muốn thế giới tuyệt chủng, như một số người nhạy cảm đã cảnh báo!


Nhưng thật ra một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba sẽ như thế nào? Chắc chắn là những trận chiến đấu trong chiến hào đã qua lâu rồi, đầu đạn hạt nhân chỉ đơn giản làm nổ tung tất cả? Chiến tranh sẽ kết thúc trong vài ngày, vài tuần, hay vài tháng hoặc nhiều năm rồi chết từ từ vì nhiễm xạ?


Đó là một viễn tưởng đáng sợ, nhưng thật ra thì các cuộc xung đột quân sự phức tạp hơn vậy, sự lựa chọn của Mỹ về hai trái bom nguyên tử ở Nhật Bản cho đến nay vẫn là chọn lựa đúng nhất so về đạo đức, chính trị và lịch sử trong các quyết định quân sự đã có. Thực tế hiện nay là các nước công nghiệp tiếp tục đẩy mạnh ngân sách quân sự của họ cho các loại vũ khí ít ghê gớm hơn, như máy bay chiến đấu F35 và tên lửa Tomahawk, thật may điều này có nghĩa là sẽ không có một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn cầu!


Nhưng thêm một lần nữa, bằng chứng gần đây nhất về sự đối đầu của các cường quốc quân sự lớn dính với một vụ nổ hạt nhân. Có phải vũ khí hạt nhân là để dành cho "trận chiến tranh thế giới" kế tiếp, ý nghĩ này cũng không trả lời được câu hỏi: Ai sẽ giành chiến thắng WWIII, vài người trong chúng ta có thể bị cám dỗ về một chiến thắng bằng hạt nhân, sạch sẽ và đơn giản.  


Trong một nỗ lực để thử đưa ra dự đoán của chúng ta về một cuộc xung đột toàn cầu với thực tế ta thấy, chúng tôi kết hợp một số dữ liệu cuả các cường quốc quân sự lớn nhất hiện nay về xu hướng tăng chi tiêu quốc phòng và nền kinh tế của họ.  

Chúng ta sẽ xét theo những tiêu chuẩn sau: 

- Quân số (quân hiện dịch, quân trừ bị và bán quân sự)
- Sức mạnh Hải quân (tính theo tấn dời nước, tức là tổng trọng lượng thực tế của tàu quân sự)
- Sức mạnh Không quân (số lượng máy bay chiến đấu và máy bay trực thăng tấn công) 
- Chi tiêu quân sự (số lượng đô la Mỹ chi cho quân sự trên tỷ lệ phần trăm của GDP) 
- Dự kiến ​​số lượng vũ khí hạt nhân 

Bây giờ, trước khi chúng ta ra khỏi các cuộc tranh luận quân sự đầy hứng khởi trên internet, chúng tôi muốn nhắc lại: Cho dù dựa trên thông tin thực tế, những tình huống mô tả ở đây hoàn toàn là giả thuyết và kết luận được rút ra từ những phân tích trên những tiêu chuẩn từ kết quả nghiên cứu, phỏng đoán về tương lai. 

Sự phong phú của vũ khí hạt nhân, cùng nhiều thứ vũ khí khác, làm cho ta hầu như không thể có một phân tích chính xác nào về khả năng tác chiến cuả quân đội hiện đại trong một cuộc xung đột toàn cầu, nó phụ thuộc rất nhiều về bối cảnh cuộc chiến so với thực tế và con số.  

Mỗi nước có cách xử lý tình huống riêng hơn là chỉ cậy vào vũ khí và tàu chiến, hàng không và đường biển có vai trò rất quan trọng trong việc triển khai quân sự, chưa kể đến vị trí địa lý, năng lực lãnh đạo, liên minh với nước  khác không được tính đến ở đây. Trên tất cả, đây chỉ là bài tập dự đoán tương lai chứ không phải là về chiến tranh thế giới 2014, có nghĩa là cần nhiều dữ kiện về quân sự hiện nay hơn để phán đoán. 

Vì vậy cần lưu ý: Những đánh giá này hoàn toàn trên trí tưởng tượng lành mạnh và bạn có thể dựa vào đây để coi như là sự thật về các sức mạnh quân sự trong tương lai gần. Do vậy, danh sách Top5 của chúng tôi coi như là một tóm tắt về sức mạnh quân sự, theo các thông số kỹ thuật được liệt kê. Nếu không có gì thay đổi to lớn trong tương lai, đây là các ứng viên hàng đầu ...

5. Vương quốc Anh, Đầu tư 60.8 Tỷ trong năm 2013, trị giá 2.5% GDP

Quân số: 387.570 người
Không quân: 222 máy bay chiến đấu , 153 trực thăng tấn công 
Hải quân: Khoảng 367.860 tấn 
Ước tính hạt nhân: Đã triển khai ít hơn 160 đầu đạn, tổng số có 225.

Danh tiếng quân sự của Anh cùng với chủ nghĩa lãng mạn lịch sử của nó thì không cần bàn đến, nhưng lực lượng vũ trang của Nữ hoàng với quá khứ hải quân tốt nhất trên thế giới nay đã không theo kịp với thực tế sức mạnh quân sự toàn cầu hiện nay. Thật sự là Hải quân Hoàng gia chỉ đứng thứ năm thế giới và Không quân Hoàng gia -lực lượng không quân độc lập lâu đời nhất thế giới- không ở trong 'top ten'.

Tuy vậy Anh vẫn là nền quân sự lớn thứ hai Tây Âu tại thời điểm này (mặc dù một số người cho là Pháp), và chi tiêu quân sự của họ xếp hạng thứ tư trên toàn thế giới vào năm 2013. Chúng tôi đã có vài khó khăn khi so sánh với Pháp, Đức hoặc Nhật Bản là ai sẽ có cơ hội tốt hơn trong chiến tranh thế giới ảo này, nhưng đây là lý do tại sao chúng tôi chọn Vương quốc Anh: 

Theo Báo cáo của Trung tâm Kinh tế và Nghiên cứu Kinh doanh năm 2013, Vương quốc Anh đang trên con đường để trở thành nền kinh tế lớn nhất Tây Âu trên cả Đức khoảng năm 2030. Cũng hình dung được trong thời gian này ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng hiện tại ở EU đã khiến phần lớn các nền kinh tế châu Âu thụt lùi sau các cường quốc đang lên như Ấn Độ và Brazil trong khi đó Anh -độc lập khỏi khu vực châu Âu- không bị vướng suy thoái kinh tế dài hạn.  

Với chỉ khoảng 2,5% GDP được chi cho quốc phòng, nước Anh không có nhiều khả năng can thiệp quân sự nhanh chóng trong trường hợp căng thẳng ở đâu đó gia tăng, mối quan hệ lịch sử gần gũi và ý thức hệ với Mỹ không giúp được gì ở đây!

4.  Ấn độ, Chi 46.1 Tỷ trong năm 2013, Tổng 2.5% GDP

Quân số: 4.768.407 
Không lực: 1080 máy bay chiến đấu, 140 máy bay trực thăng tấn công 
Hải lực: Khoảng 317.725 tấn 
Ước tính nuke: lên đến 100 đầu đạn hạt nhân.

Chi tiêu quân sự hiện nay của Ấn Độ chỉ đứng thứ 8 trên thế giới so với Pháp, Nhật Bản và thậm chí Saudi Arabia chi tiêu khoảng 10 tỷ USD nhiều hơn trong năm 2013.  

Điều gì làm cho vùng cựu thuộc địa Anh này thành một ứng cử viên đầy hứa hẹn cho sức mạnh quân sự trong tương lai, thậm chí còn mạnh hơn so với mẫu quốc? 

Một báo cáo cuả ngân hàng đầu tư Goldman Sachs năm 2007 cho biết với tốc độ tăng trưởng của Ấn Độ hiện nay, có thể thấy nền kinh tế sẽ vượt qua Anh trong vòng một thập kỷ, một báo cáo khác năm ngoái dựa trên xu hướng hiện tại, theo nhóm thông tin toàn cầu IHS dự đoán ngân sách quân sự của Ấn Độ sẽ vượt qua Anh vào năm 2017.  

Thật vậy, các dữ liệu cho thấy nước Anh, mặc dù có tách biệt từ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu, sẽ bị cắt giảm ngân sách trong khi Ấn Độ vẫn tăng các chi tiêu quốc phòng dài hạn. Ấn Độ đã sẵn sàng bắt kịp - thậm chí vượt qua các cường quốc quân sự phương Tây trong tương lai gần, và mặc dù không phải tất cả là quân số hiện dịch, Ấn Độ có số lượng quân đội cao thứ nhì trên thế giới, phần lớn là từ các nhóm bán quân sự có khả năng gia nhập thành quân đội Ấn Độ trong trường hợp xung đột toàn cầu nổ ra.

 3. Nga, 90.7 Tỷ chi ra năm 2013, bằng khoảng 4.4% GDP

Quân số: 3.250.000  
Không lực: 1.900 máy bay chiến đấu; 1.655 máy bay trực thăng tấn công  
Hải quân: Khoảng 845.730 tấn  
Ước tính nuke: Khoảng 1,480 đã triển khai trên tổng số 4502 đầu đạn hạt nhân.

Cũng nhờ vào các hoạt động gia tăng chi tiêu quân sự của Nga, là nước chi tiêu quốc phòng cao thứ ba trên thế giới mà chi tiêu quân sự toàn cầu hiện nay đang tăng lên lần đầu tiên trong 5 năm. Giống như Ấn Độ, ngân sách của Nga được xét duyệt -chỉ tăng chứ không giảm- hoàn toàn trái ngược với hầu như tất cả các ngân sách quân sự phương Tây, trong đó có Hoa Kỳ  gần đây vượt qua cả Anh bằng chứng khá mạnh mẽ của xu hướng này.

IHS dự đoán chi tiêu ngân sách quốc phòng hàng năm của Nga sẽ tăng trưởng hơn 44% trong vòng 3 năm tới, nhằm phục hồi về việc đào tạo quân đội và khí tài quân sự của Nga. Với lực lượng hải quân và không quân lớn thứ nhì trên thế giới, các kho vũ khí hạt nhân cũng lớn thứ hai, không có gì ngăn cản Nga vẫn là một cường quốc quân sự lớn trong thời gian này.


 2. USA, 682 Tỷ trong năm 2013, chiếm 4.4% GDP

Quân số: 2.291.910 
Không lực: 3318 máy bay chiến đấu, 6.417 máy bay trực thăng tấn công
Hải quân: Khoảng 3.415.893 tấn 
Ước tính nuke: Khoảng 1654 đã triển khai trên tổng số 5113 đầu đạn hạt nhân.

Làm sao chúng ta có thể có niềm tin về quân đội nào hơn là quân lực Hoa Kỳ? Chiến cụ Mỹ là tốt nhất, công nghệ tiên tiến nhất và binh sỹ được đào tạo tốt nhất trên thế giới và tất cả chúng ta đã nghe nói dớ dẩn rằng Mỹ chi tiêu cho quân sự nhiều hơn 10 siêu cường khác cộng lại, nhưng tại sao Mỹ chỉ đứng thứ hai trên thế giới? 

Chúng ta hãy giả định là cuộc chiến tranh thế giới thứ ba không xảy ra cho đến tận cuối thế kỷ này, và sau đó xem xét những điều sau đây: 

Trong khi Mỹ chi ra số tiền khổng lồ $ 682 Tỷ USD về quốc phòng trong năm 2013, IHS dự báo ngân sách năm 2014 chỉ còn khoảng $ 574.9 Tỷ. Trong khi chi phí vẫn kinh khủng như vậy -bằng tổng chi cuả cỡ tám nước khác cộng lại- nhưng giảm mỗi năm hơn 100 tỉ USD (gấp đôi ngân sách quốc phòng của Anh) thật là đáng để suy gẫm.  

Giống như Tây Âu, vấn đề nợ ngày càng tăng của Mỹ và chi tiêu quốc phòng bất thường sẽ gây ra một số thiếu hụt ngân sách vào cuối tài khoá, dự báo cho thấy sẽ bị cắt giảm 1/6 cho chi tiêu quân sự. 

Vâng, điều đó có thể không có nhiều ý nghĩa khi bạn đã có lực lượng hải quân lớn nhất và lực lượng không quân số 1 chiến đấu trên thế giới về lâu dài và một kho vũ khí hạt nhân đáng nể, nhưng hãy xem xét trường hợp sau đây ...

 1. China, 166 Tỷ chi ra trong năm 2013, bằng 2% GDP

Quân số: 7.054.000 
Không lực: 1.500 máy bay chiến đấu, ??? máy bay trực thăng 
Hải quân: Khoảng 708.086 tấn 
Dự đoán nuke : Có khoảng 240 đầu đạn hạt nhân (dữ liệu không đáng tin cậy)

Ai cũng biết về tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc kể từ cuối những năm 70 là chưa từng có, nhưng ấn tượng nhất vẫn là tốc độ mà nó đã đạt được và có vài điều cần nói về tốc độ đó. 

Mặc dù bị trở ngại bởi các vấn đề xã hội nghiêm trọng và vấn đề ô nhiễm môi trường, chính phủ Trung Quốc đã chứng minh một khả năng đáng ngưỡng mộ để thúc đẩy sự liên tục trong cải cách kinh tế và xã hội. Họ đã chứng minh được hiệu quả cao trong phát triển kinh tế và nâng cao mức sống của công dân Trung Quốc.  

Nhưng đối với hầu hết các nhà phân tích, câu hỏi lớn nhất về phát triển của Trung Quốc là liệu sự căng thẳng tiềm ẩn đến khi nào thì chín mùi, khi nào thì chính phủ sẽ mất kiểm soát dân chúng nếu tăng trưởng kinh tế của chính phủ ngày càng bỏ rơi nhiều hơn các công dân đói nghèo tụt lại phía sau? 

Trong thượng tầng quân sự, câu hỏi này có quan trọng không? Có thể nói rằng một xã hội mà trong đó dân chúng không hài lòng thì không thể cùng tồn tại với nó một quân đội thực sự mạnh mẽ, một số cho rằng chính phủ độc đảng không thể giữ bộ mặt hợp pháp khi ngày càng phải đối mặt với toàn cầu hóa (và cả với phương Tây) trên thế giới. 

Nhưng đây là những gì các dữ liệu đã cho biết: 

- Theo bảng dự báo cuả Liên đoàn Kinh tế Thế giới báo cáo vào 2013, GDP của Trung Quốc sẽ vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2028.  

- Trung Quốc hiện nay chỉ dành 2% GDP -so với của Mỹ đã là 4,4% GDP cho tăng trưởng quân sự- International Institute for Strategic Studies, năm 2011 đã công bố một nghiên cứu cho thấy với xu hướng chi tiêu hiện nay, Trung Quốc sẽ đạt bình đẳng quân sự, hoặc gần bằng với Mỹ chỉ trong vòng 15-20 năm và đây là tính toán trước khi Trung Quốc tăng chi tiêu của mình lên 166 Tỷ USD vào năm ngoái. 

- Với sự quản lý đất nước sau cánh cửa khép kín cuả đảng cộng sản Trung quốc, chúng ta thực sự biết bao nhiêu về quân đội Trung Quốc? Mức độ đầy đủ sức mạnh của họ vẫn còn là dấu hỏi, nhưng với những con số như họ có, Trung Quốc có thể đánh bại Mỹ nếu bị xô đẩy đến mức một mất một còn, trong trường hợp xảy ra xung đột quốc tế. 

Chúng ta đã xếp hạng 5 đối thủ có tiềm năng trong chiến tranh thế giới III dựa vào sức mạnh quân sự, chúng ta hãy xem xét một số cách khác mà một cuộc xung đột toàn cầu có thể phát sinh trong thế kỷ 21.

Còn...

 (http://www.therichest.com/rich-list/rich-countries/top-5-countries-most-likely-to-win-world-war-iii/5/)

Tiếng Việt do XâyXậpZì.

Saturday, March 15, 2014

A LAMENT FOR VIETNAM,4

Bản gốc cuả bài dịch "Xót xa đất Việt" bên blog Bốn mươi hai.

( http://www.nytimes.com/1981/03/29/magazine/a-lament-for-vietnam.html?pagewanted=1)

When the Communists took over North Vietnam in 1954, a million refugees fled to the South. I personally heard stories of their incredible suffering. But, along with other South Vietnamese, I refused to believe them. A generation later, I could not believe Solzhenitsyn's book ''The Gulag Archipelago,'' either. I dismissed it as anti-Communist propaganda. But by 1979, I had published my own book, ''The Vietnamese Gulag.'' Can those who have suffered the horror of Communism ever convince those who have not experienced it? From 1945, when I was born in the village of Caivon in Vinh Long province, 100 miles south of Saigon, until I left Vietnam in May 1978, I never enjoyed peace. My family's house was burned three times in the war against the French. To escape the fighting, my parents moved from one village to another throughout my youth. Like the majority of Vietnamese patriots, they joined the resistance forces fighting the French. As I grew up, I myself saw how the peasants were oppressed by the local officials of the successive Saigon regimes, how they were victimized by the French bombardments. I learned the history of my country's thousand-year struggle against Chinese occupation and its century-long effort against Western domination. With this background, my compatriots and I grew up with a hatred of foreign intervention.
When the students at Saigon University elected me vice president of the Saigon Student Union in 1969 and 1970, I participated in the different peace efforts, leading student demonstrations against the Thieu regime and against American involvement. I published a magazine called Self-Determination, and traveled in January 1971 to California to give antiwar lectures at Berkeley and Stanford. For my activities, I was arrested and jailed many times by the Thieu Government.
During that period, I believed that I was fulfilling my commitment to peace and the independence of my country. I had faith, too, in the program of the National Liberation Front (N.L.F.), which led the revolutionary resistance in South Vietnam. I hated Saigon's rulers, men like Gen. Nguyen Van Thieu, Gen. Nguyen Cao Ky, Gen. Dang Van Quang - former soldiers of the French colonial army. These were the men whom the French had recruited in the 1940's to help destroy the Vietnamese resistance. They had risen over the years to become leaders themselves, but they commanded no respect from the people. Because of their lack of popular support, they were predisposed to rely on foreign forces.
As a student leader, I felt I had to pursue the aspiration of the Vietnamese people for democracy, freedom and peace. Naively, I believed that the Hanoi regime at least had the virtue of being Vietnamese, while the Americans were foreign invaders like the French before them. Like others in the South Vietnamese opposition movements, I believed that our Communist compatriots in the North would be more amenable to compromise and easier to work with than the Americans. Moreover, I was hypnotized by the personal sacrifices and devotion the Communist leaders had demonstrated. Ton Duc Thang, former President of North Vietnam, for example, had been imprisoned for 17 years in a French jail. I was hypnotized also by the political programs advocated by the N.L.F., which included a domestic policy of national reconciliation, without risk of reprisal, and a foreign policy of nonalignment. Finally, I was influenced by progressive movements throughout the world and by the most prestigious intellectuals in the West. My impression was that during the 1960's and early 70's the leaders of the American peace movement shared my convictions.
These convictions endured through the signing of the 1973 Paris peace accords and the subsequent collapse of the South Vietnamese Government two years later. When liberation was imminent, I was the one who told friends and relatives not to flee. ''Why do you want to leave?'' I asked. ''Why are you afraid of the Communists?'' I accepted the prospect of enduring hardships to rebuild my country and I decided to stay in Vietnam and continue working as a branch manager at a Saigon bank, where I had been for more than four years, writing secret reports about the economic situation in South Vietnam for the N.L.F. (After leaving the university, I had not been drafted by the South Vietnamese Government because I was the only son in my family. And I had not joined the Vietcong because the N.L.F. felt I could serve a more useful role providing financial reports from the bank.)
Several days after Saigon fell, the Provisional Revolutionary Government, formed by the N.L.F., asked me to join the finance committee, a group of intellectuals whose job it was to advise the Government on matters of economic policy. I complied willingly, taking a pay cut of 90 percent. My first assignment was to help draw up a plan for confiscating all the private property in South Vietnam. Shocked, I proposed that we should expropriate only the property of those who had cooperated with the former regime and those who had used the war to become rich, and that we distribute it in some fashion to the poor and to the victims of the war, Communist and non-Communist alike. My proposals, of course, were rejected. I was naive enough to think that the local cadres were mistaken, that they misunderstood the good intentions of the Communist Party leaders. I had many fights with them, believing as I did Hanoi's previous statement that ''the situation in the South is very special and different from that of North Vietnam.'' A few months before the liberation of Saigon, Le Duan, the First Secretary of the Communist Party, had said, ''The South needs its own policy.''

(Page 2 of 4)
In the end, I could not obey the order to help arrange the confiscation of all private property, a plan that was subsequently carried out. Such a scheme had nothing to do with fulfilling the aspirations of the South Vietnamese, and it went against my conscience. I decided to resign. But no one resigns in a Communist regime. The implication of nonconformity is intolerable to Communists. When I submitted my resignation, the chief of the finance committee warned me that my action ''would only serve as propaganda to excite the people; here we never do it that way.'' Several days later, while I was attending a concert at the great National Theater (formerly the National Assembly Hall, which my fellow students and I had occupied so many times under the Thieu regime), I was arrested. No charges were made, no reasons were given. After the fall of Saigon, many progressive intellectuals and former antiwar-movement leaders believed that the new Vietnamese regime would bring internal democracy and freedom from foreign domination. They believed that the new regime would pursue the best interests of the people, honoring its promise to carry out a policy of national reconciliation without fear of reprisal. Far from adhering to their promises, the Vietnamese rulers have arrested hundreds of thousands of individuals - not only those who had cooperated with the Thieu regime but even those who had not, including religious leaders and former members of the N.L.F.
Vietnam today is a country without any law other than the arbitrary directives of those in power. There is no civil code. Individuals are imprisoned without charges and without trial. Once in jail, prisoners are taught that their behavior, attitude and ''good will'' are the key factors in determining when they may be released -whatever crimes they may have committed. As a consequence, prisoners often obey the guards blindly, hoping for an early release. In fact, they never know when they may be released - or when their sentences may be extended. How many political prisoners are there in Vietnam today? And how many of them have died in prisons during the first six years of Communist rule? Nobody can know the exact numbers. The United States Department of State has said there are from 150,000 to 200,000 prisoners; Vietnamese refugees estimate about one mil lion. Hoang Huu Quynh, an intellectu-al, a graduate of Moscow University, who served as a director of a technical school in Ho Chi Minh City (formerly Saigon), recently defected to France during his Governmentsponsored tour of European countries. He told the French press: ''There are at least 700,000 prisoners in Vietnam today.'' Another witness, Nguyen Cong Hoan, a former member of the reunified National Assembly, which was elected in 1976, who escaped by boat in 1978, said that he himself knew ''about 300 cases of executions'' in his own province of Phu Yen. In 1977, officials in Hanoi insisted that only 50,000 people, who posed the greatest threat to national security, had been arrested. But Prime Minister Pham Van Dong said, in the French magazine Paris Match, on Sept. 22, 1978, ''In over three years, I released more than one million prisoners from the camps.'' One wonders how it is possible to release more than a million after having arrested only 50,000.
When I was arrested, I was thrown into a three-foot-by-six-foot cell with my left hand chained to my right foot and my right hand chained to my left foot. My food was rice mixed with sand. When I complained about the sand, the guards explained that sand is added to the rice to remind prisoners of their crimes. I discovered that pouring water in the rice bowl would make the sand separate from the rice and sink to the bottom. But the water ration was only one liter a day for drinking and bathing, and I had to husband it carefully.
After two months in solitary confinement, I was transferred to a collective cell, a room 15 feet wide and 25 feet long, where at different times anywhere from 40 to 100 prisoners were crushed together. Here we had to take turns lying down to sleep, and most of the younger, stronger prisoners slept sitting up. In the sweltering heat, we also took turns snatching a few breaths of fresh air in front of the narrow opening that was the cell's only window. Every day I watched my friends die at my feet.
In March 1976, when a group of Western reporters visited my prison, the Communist officials moved out all the prisoners and substituted North Vietnamese soldiers. In front of the prisons, one sees no barbed wire, no watchtowers, only a few policemen and a large sign above the entrance that proclaims Ho Chi Minh's best-known slogan: ''Nothing Is More Precious Than Liberty and Independence.'' Only those detained inside and those who guard them know what kind of place is hidden behind that sign. And every prisoner knows that if he is suspected of planning to escape, his fellow inmates and relatives at home will be punished rather than he himself.
We will never know precisely the number of dead prisoners, but we do know about the deaths of many well-known prisoners who, in the past, never cooperated with President Thieu or the Americans: for example, Thich Thien Minh, the strategist of all the Buddhist peace movements in Saigon, an antiwar activist who was sentenced to 10 years in jail by the Thieu regime, then released after an outpouring of protest from Vietnamese and antiwar protesters around the world. Thien Minh died in Ham Tan prison after six months of detention in 1979. Another silent death was that of the lawyer Tran Van Tuyen, a leader of the opposition bloc in the Saigon Assembly under President Thieu. This well-known activist died in Communist hands in 1976, although as late as April 1977, Prime Minister Pham Van Dong was telling French reporters that Tuyen was alive and well in a re-education camp. One of the greatest losses has been that of the famous Vietnamese philosopher Ho Huu Tuong. Tuong, a classmate of Jean-Paul Sartre's in Paris in the 1930's, was perhaps the leading intellectual in South Vietnam. He died in Ham Tan prison on June 26, 1980. These men were arrested, along with many others among the most prominent and respected South Vietnamese, in order to pre-empt any possible opposition to the Communists.

(Page 3 of 4)
Some American supporters of Hanoi have ignored or rationalized these deaths, as they have the countless other tragedies that have befallen Vietnam since 1975. It is more than likely that they will continue to maintain their silence in order to avoid the profound disillusionment that accepting the truth about Vietnam means for them. Yet if liberty and democracy are worth struggling for in the Philippines, in Chile, in South Korea or in South Africa, they are no less worth defending in Communist countries like Vietnam. Everyone remembers the numerous demonstrations protesting United States involvement in Vietnam and the war crimes of the Thieu regime. But some of those people who were then so passionately committed to democratic principles and human rights have developed a strange indifference now that these same principles are under assault in Communist Vietnam. For example, one antiwar activist, William Kunstler, refused to sign a May 1979 open letter to the Socialist Republic of Vietnam in which many former antiwar activists, including Joan Baez, protested Hanoi's violations of human rights. Kunstler said, ''I don't believe in criticizing socialist governments publicly, even if there are human-rights violations,'' and, ''The entire Baez campaign may be a C.I.A. plot.'' This statement reminds me of the argument used by the Thieu regime to suppress opposition: ''The peace movements and the opposition activists are all the Communists' lackeys.''
There are other illusions about the current regime in Vietnam about which people should be disabused. Many people believed that Ho Chi Minh was primarily a nationalist and that the Vietnamese Communists were and are independent of the Soviet Union. I believed the same before they took over South Vietnam. But portraits of Soviet leaders now adorn public buildings, schools and administrative offices throughout ''independent Vietnam.'' In contrast, one never saw pictures of American leaders even during the so-called puppet regime of President Thieu. The degree of subordination the present Government feels toward its Soviet patron is suggested by a famous poem by the well-known Vietnamese poet To Huu, a member of the Politburo and president of the Communist Party Committee of Culture. Here we have an opportunity to listen to a high-ranking Vietnamese weep on the occasion of Stalin's death: Oh, Stalin! Oh, Stalin! The love I bear my father, my mother, my wife, myself It's nothing beside the love I bear you, Oh, Stalin! Oh, Stalin! What remains of the earth and of the sky! Now that you are dead.
It may seem incredible that such a poem could have been written in Vietnam, which is known for the strength of its family traditions and its feeling for filial piety. Yet this poem occupied a prominent place in a major anthology of contemporary Vietnamese poetry recently published in Hanoi.
Moreover, Le Duan, First Secretary of the Communist Party, said in his political report to the reunified National Assembly in 1976: ''The Vietnamese revolution is to fulfill the internationalist duty and the international obligation,'' and to do so, in the words of the 1971 party platform, ''under the leadership of the Soviet Union.'' The glorification of Soviet life is, in fact, a major goal of Communist Vietnam's censorship policy.
Immediately after the fall of Saigon, the Government closed all bookshops and theaters. All books published under the former regimes were confiscated or burned. Cultural literature was not exempt, including translations of Jean-Paul Sartre, Albert Camus and Dale Carnegie. Margaret Mitchell's ''Gone With the Wind'' was on the list of decadent literature as well. The new regime replaced such books with literature designed to indoctrinate children and adults with the idea that the ''Soviet Union is a paradise of the socialist world.''
Another argument made at times by Western apologists has to do with freedom of religion in Vietnam. One article in the new Constitution of Vietnam, adopted this year, declares that ''the regime respects the liberty of the believers and also the liberty of the nonbelievers.'' In regard to this article, Le Duan has repeatedly proclaimed: ''Our present regime is a million times more democratic than any other in the world.'' The reality, though, is suggested by an incident involving the desecration of a Buddhist pagoda, in which a nude woman, on orders from the Government, entered the pagoda during a worship service. When Thich Man Giac, a prominent Buddhist leader, protested, the Government used the opportunity to try to discredit the Buddhists as enemies of democracy -specifically, of the freedom to disbelieve. Thich Man Giac, who had served as liaison between the Buddhists and the Communist Government, escaped Vietnam by boat in 1977 and is now living in Los Angeles. All of those who supported the N.L.F. in its struggle should be aware of how they were betrayed and deceived. When Harrison Salisbury of The New York Times visited Hanoi in December 1966, the leaders in Hanoi told him: ''The direction of the struggle in the South is by the South and not by the North.'' Pham Van Dong, Prime Minister, said to Salisbury: ''No one in the North had this stupid, criminal idea in mind'' that the North wanted to annex the South.

(Page 4 of 4)
Yet in a victory-day celebration speech made on May 19, 1975, Le Duan said, ''Our party is the unique and single leader that organized, controlled and governed the entire struggle of the Vietnamese people from the first day of the revolution.'' In his political report to the reunified National Assembly in Hanoi on June 26, 1976, Le Duan said: ''The strategic task of the revolution in our country in the new stage is to achieve the reunification of our homeland and to take the whole country rapidly, vigorously and steadily to socialism, and Communism.''
In 1976, the Provisional Revolutionary Government formed by the N.L.F. was abolished, and South and North Vietnam were reunified under Commu-nist rule. Today, among 17 members of the Politburo and 134 members of the Central Committee of the Vietnamese Communist Party, not a single one is from the N.L.F. (there are several members who had been North Vietnam Communist Party representatives with the N.L.F.). Even Nguyen Huu Tho, former chairman of the N.L.F., holds only the post of acting President of State, a ceremonial position that involves greeting visitors and participating in festivals. But his position will be abolished under the new Constitution.
Listen to Truong Nhu Tang, 57 years old, a founder of the N.L.F., former Justice Minister of the Provisional Revolutionary Government, more recently one of the boat people. Tang escaped in November 1979 and is now living in Paris. He told reporters of his experience in a news conference in Paris in June 1980. Twelve years earlier, he said, when he had been jailed by the Thieu regime for his Communist activities, his father came to visit. ''Why,'' he asked Tang, ''have you abandoned everything - a good job, a rich family - to join the Communists? Don't you know that the Communists will betray you and persecute you, and when you finally understand, it will be too late to wake up?'' Tang, an intellectual, answered his father: ''You would do better to keep quiet and accept the sacrifice of one of your sons for democracy and our country's independence. ...''
After the Tet offensive in 1968, Tang was exchanged for three American colonels who had been prisoners of war held by the Vietcong; then he vanished into the jungle with the N.L.F. He had visited many Communist and third-world countries on behalf of the N.L.F. during the war. Tang said in his news conference: ''I was well aware that the N.L.F. was a Communist-dominated national united front and I was naive enough to believe that Ho Chi Minh and his party would place national interests above ideology and would place the interest of the Vietnamese people above the party's. But the people and I were wrong.''
Truong Nhu Tang told of his own knowledge of the way Communist ruling circles operate: ''The Communists are expert in the arts of seduction and will go to any length to woo you over to their side, as long as they don't control the Government. But once they are in power they suddenly become harsh, ungrateful, cynical and brutal.'' Tang summarized current conditions in Vietnam: ''The family is divided, society is divided, even the party is divided.''
Looking back now on the Vietnam war, I feel nothing but sorrow for my own naivete in believing that the Communists were revolutionaries worthy of support. In fact, they betrayed the Vietnamese people and deceived progressives throughout the world. The responsibility for the tragedies that have engulfed my compatriots is mine. And now I can only bear witness to this truth so that all former supporters of the Vietcong may share their responsibility with me.
While I was in jail, Mai Chi Tho, a member of the Central Committee of the Communist Party, addressed a selected group of political prisoners. He told us: ''Ho Chi Minh may have been an evil man; Nixon may have been a great man. The Americans may have had the just cause; we may not have had the just cause. But we won and the Americans were defeated because we convinced the people that Ho Chi Minh is the great man, that Nixon is a murderer and the Americans are the invaders.'' He concluded that ''the key factor is how to control people and their opinions. Only Marxism-Leninism can do that. None of you ever see resistance to the Communist regime, so don't think about it. Forget it. Between you - the bright intellectuals - and me, I tell you the truth.''
And he did tell us the truth. Since 1978, the Vietnamese Communists have occupied Laos, invaded Cambodia and attacked Thailand, while the Soviet Union has invaded Afghanistan. In each of these depredations, the Communists have portrayed themselves, incredibly, as liberators, saviors and bulwarks against foreign aggression. And each time, world opinion has remained relatively quiescent.
But in Vietnam, people often remark: ''Don't believe what the Communists say, look instead at what they have done.'' One South Vietnamese Communist, Nguyen Van Tang, who was detained 15 years by the French, eight years by Diem, six years by Thieu, and who is still in jail today, this time in a Communist prison, told me: ''In order to understand the Communists, one must first live under a Communist regime.'' One rainy evening in Saigon's Le Van Duyet prison, he told me: ''My dream now is not to be released; it is not to see my family. My dream is that I could be back in a French prison 30 years ago.'' This is the one wish of a 60-year-old man who has spent his entire adult life in and out of prison fighting for the freedom and the independence of his country. At this moment, he may already have died in his cell or have been executed by the new rulers.
The Vietnamese people wish to achieve the real revolution; they do not want Communism. The measure of popular hatred for the Communists is that thousands of Vietnamese have abandoned their historical attachment to the land. Under French colonial domination, throughout the long war years, even during the catastrophic famine of 1945 when two million starved to death, Vietnamese simply did not willingly leave their homeland - the land of their ancestors' graves. The recent outpouring of refugees is a direct result of the terror of the present regime. Listen to another refugee, Nguyen Cong Hoan, former N.L.F. agent and member of the new unified Assembly elected in 1976: ''This current regime is the most inhuman and oppressive (Vietnam) has ever known.'' Hoan escaped by boat in 1977, after abandoning his position in the Communist Assembly. ''The Assembly,'' he declared, ''is a puppet, the members know only how to say yes, never how to say no.''
Among the boat people who survived, including those who were raped by pirates and those who suffered in the refugee camps, nobody regrets his escape from the present regime. I am confident that the truth about Vietnam will eventually emerge. It is already available to those who wish to know it. As Solzhenitsyn has said, ''Truth weighs as heavy as the world.'' And Vietnam is a lesson in truth.